Bệnh xơ cứng hệ thống là một bệnh thấp khớp hệ thống mạn tính hiếm gặp, nguyên nhân chưa rõ, đặc trưng bởi tình trạng xơ hóa lan tỏa và bất thường về mạch máu ở da, khớp và các cơ quan nội tạng (đặc biệt là thực quản, đường tiêu hóa dưới, phổi, tim và thận). Các triệu chứng phổ biến bao gồm hội chứng Raynaud, đau đa khớp, khó nuốt, ợ nóng, sưng và cuối cùng là da dày lên và co cứng các ngón tay. Các tổn thương ở phổi, tim và thận là các nguyên nhân dẫn đến tử vong. Chẩn đoán dựa trên các triệu chứng lâm sàng, nhưng các xét nghiệm cũng hỗ trợ chẩn đoán và giúp tiên lượng. Phương pháp điều trị cụ thể dựa trên các triệu chứng và tình trạng thương tổn của cơ quan cụ thể.
Bệnh xơ cứng hệ thống phổ biến hơn ở phụ nữ so với nam giới, với một đánh giá có hệ thống trích dẫn tỷ lệ mắc bệnh cao gấp 5 lần ở phụ nữ (1). Bệnh hay gặp nhất ở người từ 20 đến 50 tuổi và hiếm khi xảy ra ở trẻ em.
Tài liệu tham khảo
1. Bairkdar M, Rossides M, Westerlind H, Hesselstrand R, Arkema EV, Holmqvist M. Incidence and prevalence of systemic sclerosis globally: a comprehensive systematic review and meta-analysis. Rheumatology (Oxford). 2021;60(7):3121-3133. doi:10.1093/rheumatology/keab190
Phân loại xơ cứng bì hệ thống
Xơ cứng bì hệ thống được phân loại là
Bệnh xơ cứng hệ thống da giới hạn (hội chứng CREST)
Xơ cứng bì hệ thống da lan tỏa
Xơ cứng bì hệ thống không có tổn thương xơ cứng da
Trong bệnh xơ cứng hệ thống da giới hạn (hội chứng CREST – vôi hóa da, hội chứng Raynaud, rối loạn nhu động thực quản, xơ cứng ngón tay, giãn mạch), bệnh nhân bị dày da trên mặt và xa khuỷu tay, đầu gối và cũng có thể bị bệnh trào ngược dạ dày thực quản. Thể bệnh này được đặc trưng bởi tiến triển chậm và thường bị nặng lên bởi tăng áp động mạch phổi.
Ở bệnh xơ cứng hệ thống lan tỏa trên da, bệnh nhân có tình trạng tổn thương da lan rộng hơn về phía đầu gần so với bệnh nhân có bệnh lý da giới hạn. Họ cũng có hội chứng Raynaud và các biến chứng đường tiêu hóa (GI). Phân nhóm này có thể tiến triển nhanh chóng. Bệnh phổi kẽ và cơn cường thận là các biến chứng lớn.
Trong bệnh xơ cứng hệ thống không có xơ cứng bì, bệnh nhân có kháng thể liên quan đến bệnh xơ cứng hệ thống và biểu hiện bệnh ở nội tạng nhưng không có tình trạng dày da.
Căn nguyên của xơ cứng bì hệ thống
Cơ chế miễn dịch và di truyền đóng vai trò trong nguyên nhân gây bệnh.
Các hội chứng giống bệnh xơ cứng hệ thống có liên quan đến vinyl clorua, bleomycin, pentazocine, epoxy và hydrocarbon thơm, dầu hạt cải bị ô nhiễm hoặc L-tryptophan.
Sinh lý bệnh xơ cứng bì hệ thống
Sinh lý bệnh bao gồm tổn thương mạch và kích hoạt các nguyên bào sợi; collagen và các protein ngoại bào khác trong các mô khác nhau được sản xuất quá mức.
Trong xơ cứng bì hệ thống, da phát triển các sợi collagen nhỏ gọn hơn ở phía dưới lớp hạ bì, teo mỏng lớp thượng bì, mất lớp biều bì, và teo các phần phụ trên da. Tế bào T có thể tích tụ và xơ hóa ở tổ chức da và dưới da. Ở các nếp gấp móng, các vòng mao mạch giãn ra và một số vòng mạch máu nhỏ bị mất. Ở các chi, có viêm mạn tính và xơ hóa màng hoạt dịch, bề mặt và các mô mềm xung quanh.
Rối loạn nhu động thực quản, giảm chức năng cơ vòng thự quản dưới; trào ngược dạ dày thực quản và hẹp thực quản thứ phát có thể xuất hiện. Thoái hóa lớp niêm mạc có thể dẫn đến hình thành các túi thừa giả ở đại tràng và hồi tràng. Có thể có viêm phổi kẽ và xơ hóa quanh phế quản hoặc tăng sản lớp nội mạc động mạch phổi; nếu kéo dài có thể làm tăng áp động mạch phổi. Có xơ hóa cơ tim lan tỏa và rối loạn dẫn truyền tim. Sự tăng sinh quá mức động mạc liên cầu và động mạch vòng có thể có ở thận, làm thiếu máu cục bộ và tăng huyết áp.
Bệnh xơ cứng hệ thống có nhiều mức độ nặng và tiến triển khác nhau, từ tình trạng dày da toàn thân với sự liên quan đến nội tạng tiến triển nhanh và thường gây tử vong (bệnh xơ cứng hệ thống lan tỏa trên da) đến tình trạng liên quan đến da riêng lẻ (thường chỉ ở ngón tay và mặt) và tiến triển chậm (thường kéo dài vài thập kỷ). Dạng sau được gọi là bệnh xơ cứng hệ thống da giới hạn bao gồm hội chứng CREST. Ngoài ra, bệnh xơ cứng hệ thống có thể chồng chéo với các bệnh thấp khớp hệ thống khác – ví dụ: viêm xơ cứng da cơ (da và cơ yếu không thể phân biệt được với bệnh viêm cơ vô căn) và bệnh mô liên kết hỗn hợp.
Triệu chứng và dấu hiệu của xơ cứng bì hệ thống
Các triệu chứng và dấu hiệu ban đầu phổ biến nhất của bệnh xơ cứng hệ thống là hội chứng Raynaud và tình trạng sưng tấy âm ỉ ở các đầu ngón tay (ngón tay sưng tấy) cùng với tình trạng da ở các ngón tay dày dần lên. Đau đa khớp cũng nổi bật. Rối loạn tiêu hóa (ví dụ: ợ nóng, khó nuốt) hoặc các vấn đề về hô hấp (ví dụ: khó thở) đôi khi là những biểu hiện đầu tiên.
Biểu hiện da và móng
Sưng da thường có tính đối xứng và tiến triển. Nó có thể biểu hiện hạn chế ở các ngón tay (xơ cứng đầu chi) và bàn tay, hoặc nó có thể ảnh hưởng đến toàn bộ cơ thể. Cuối cùng, da trở nên căng, bóng, giảm hoặc tăng sắc tố; khuôn mặt trông giống như mặt nạ, với chiếc mũi nhỏ, hóp và miệng cá. Giãn mạch có thể xuất hiện ở ngón tay, ngực, mặt, môi và lưỡi. Tuy nhiên, ở một số bệnh nhân, da có thể mềm ra ở nhiều mức độ khác nhau sau một vài năm.
Có thể có lắng đọng canxi dưới da, thường ở các đầu nóng tay hoặc ở các chỗ lồi xương.
Loét ngón hay gặp, đặc biệt ở đầu ngón tay, mặt duỗi các khớp tay hoặc ở trên các nốt canxi.
Các bệnh về nướu và nha chu rất phổ biến, cũng như tình trạng rụng tóc.
Bất thường các mao mạch và các vòng vi mạch ở móng tay có thể nhìn thấy được khi dùng kính lúp hoặc kính hiển vi phân tích.
Bức ảnh này cho thấy da dày và bóng ở giai đoạn cuối cùng với sự mất đi các dấu hiệu bình thường do tình trạng căng cứng, được gọi là chứng cứng ngón.
Được sự cho phép của nhà xuất bản. Từ Pandya A: Gastroenterology and Hepatology: Stomach and Duodenum. Do M Feldman biên tập. Philadelphia, Current Medicine, 1996.
Trong bức ảnh này, da ngực bị co cứng, căng ra và lan sang cả hai bên vai, khiến vai không thể cử động được.
Được sự cho phép của nhà xuất bản. Từ Marder W, Lath V, Crofford L, Lowe L, McCune WJ: Atlas về Thấp khớp. Biên tập bởi G Hunder. Philadelphia, Current Medicine, 2005.
Trong bức ảnh này, da cứng và thắt chặt khiến các ngón chân co vào nhau.
BÁC SĨ P. MARAZZI/SCIENCE PHOTO LIBRARY
Bức ảnh này cho thấy làn da săn chắc, căng bóng ở cẳng tay của một bệnh nhân mắc bệnh xơ cứng hệ thống.
Hình ảnh do bác sĩ Karen McKoy cung cấp
Các biểu hiện khớp
Được sự cho phép của nhà xuất bản. Từ Marder W, Lath V, Crofford L, Lowe L, McCune WJ: Atlas về Thấp khớp. Biên tập bởi G Hunder. Philadelphia, Current Medicine, 2005.
Đau đa khớp hoặc viêm khớp nhẹ có thể nổi bật. Gây rút có thể xuất hiện ở các ngón tay, khớp cổ tay và khớp khuỷu.
Có thể có dính khớp, bao gân và các bao thanh dịch lớn.
Biểu hiện đường tiêu hóa
Rối loạn chức năng thực quản là rối loạn nội tạng thường thấy nhất và xảy ra ở hầu hết các bệnh nhân. Khó nuốt (thường là sau xương ức) thường biểu hiệu đầu tiên. Trào ngược axit có thể gây ra chứng ợ nóng và hẹp thực quản. Thực quản Barrett xảy ra ở một phần ba số bệnh nhân và dễ dẫn đến biến chứng (ví dụ: ung thư biểu mô tuyến).
Nhu động ruột non kém gây ra tình trạng tắc ruột giả và phát triển quá mức của vi khuẩn có thể dẫn đến kém hấp thu. Khí có thể xâm nhập vào thành ruột bị tổn thương và có thể nhìn thấy trên phim chụp X-quang (viêm ruột do khí). Rò rỉ dịch ruột vào khoang phúc mạc có thể gây viêm phúc mạc. Túi thừa giả miệng rộng đặc biệt có thể phát triển trong đại tràng.
Viêm đường mật nguyên phát có thể xảy ra ở những bệnh nhân mắc hội chứng xơ cứng hệ thống da giới hạn (hội chứng CREST).
Biểu hiện tim phổi
Tổn thương phổi thường tiến triển thầm lặng với các thay đổi khác nhau ở từng bệnh nhân, nhưng thường là nguyên nhân gây tử vong hay gặp. Xơ hóa phổi và bệnh phổi kẽ hay gặp và có thể gây rối loạn trao đổi khí, dẫn tới khó thở gắng sức và bệnh phổi thu nhỏ với suy giảm chức năng hô hấp. Viêm phế nang cấp (có khả năng đáp ứng với điều trị) có thể xuất hiện. Rối loạn chức năng thực quản có thể dẫn đến viêm phổi do thở hít.
Tăng áp động mạch phổi có thể có, cũng như suy tim và cả hai tổn thương này dẫn đến tiên lượng xấu. Viêm ngoại tâm mạc có tràn dịch hoặc tràn dịch màng phổi có thể có. Rối loạn nhịp tim thường gặp.
Biểu hiện bệnh thận
Bệnh thận nặng, thường khởi phát đột ngột (cơn suy thận do xơ cứng bì) có thể xảy ra, thường gặp nhất trong 4 năm đến 5 năm đầu tiên ở những bệnh nhân thường bị xơ cứng bì lan tỏa ở da và kháng thể RNA polymerase III. Bệnh thận cấp thường được báo trước bởi tăng huyết áp đột ngột, nặng, kèm theo thiếu máu tan máu huyết khối mạch nhỏ. Bệnh thận cấp cũng có thể xảy ra mà không có tăng huyết áp cấp hoặc trong xơ cứng bì hệ thống không có tổn thương cơ, và bởi vậy cần theo dõi lâm sàng để chẩn đoán.
Điều trị bằng corticosteroid là một yếu tố nguy cơ làm xuất hiện bệnh thận cấp.
Chẩn đoán xơ cứng bì hệ thống
Xét nghiệm kháng thể
Tiêu chuẩn lâm sàng
Bệnh xơ cứng hệ thống cần phải được xem xét ở những bệnh nhân mắc hội chứng Raynaud, các biểu hiện điển hình về cơ xương hoặc da, hoặc chứng khó nuốt không rõ nguyên nhân, kém hấp thu, xơ phổi, tăng áp động mạch phổi hoặc bệnh cơ tim. Chẩn đoán xơ cứng bì hệ thống không có tổn thương da ở các bệnh nhân có tổn thương nội tạng không tìm thấy nguyên nhân (ví dụ: tăng áp động mạch phổi). Chẩn đoán bệnh xơ cứng hệ thống có thể rõ ràng ở những bệnh nhân có sự kết hợp của các biểu hiện điển hình, chẳng hạn như hội chứng Raynaud (có phát hiện bất thường ở mao mạch ở nếp gấp móng tay), khó nuốt và da dày. Tuy nhiên, ở một số bệnh nhân, chẩn đoán không thể thực hiện được trên lâm sàng; các xét nghiệm xác nhận trong phòng thí nghiệm có thể làm tăng khả năng chẩn đoán bệnh, nhưng việc không có một số dấu hiệu xét nghiệm và dấu hiệu thực thể không loại trừ được khả năng này.
Xét nghiệm kháng thể
Cách hiệu quả nhất về mặt chi phí để xét nghiệm kháng thể là xét nghiệm kháng thể kháng nhân (ANA), kháng thể kháng Scl-70, kháng thể kháng tâm động và kháng thể kháng U3 RNP trước; nếu kết quả âm tính, nên cân nhắc xét nghiệm các kháng thể khác dựa trên biểu hiện lâm sàng.
ANA có ở ≥ 90% số bệnh nhân, thường theo kiểu kháng nhân.
Kháng thể kháng tâm động xuất hiện trong huyết thanh của tỷ lệ lớn bệnh nhân mắc bệnh ngoài da giới hạn nhưng không đặc hiệu.
Kháng thể kháng Scl-70 (topoisomerase I) có khả năng xuất hiện nhiều hơn ở những bệnh nhân mắc bệnh xơ cứng hệ thống lan tỏa trên da so với những bệnh nhân mắc bệnh về da giới hạn.
Kháng thể kháng RNA polymerase III có liên quan đến bệnh xơ cứng bì hệ thống lan tỏa trên da, bệnh thận xơ cứng bì và ung thư.
Kháng thể kháng U3 RNP (fibrillarin) cũng liên quan đến bệnh lan tỏa.
Kháng thể kháng Th/To có liên quan đến bệnh giới hạn, bệnh phổi kẽ và tăng áp động mạch phổi.
Kháng thể kháng PM-Scl có thể có ở những bệnh nhân bị viêm cơ, vôi hóa và bệnh phổi kẽ và có tiên lượng thuận lợi hơn (1).
Tiêu chuẩn lâm sàng
Để giúp xác định chẩn đoán, các bác sĩ lâm sàng cũng có thể tham khảo tiêu chuẩn chẩn đoán và phân loại xơ cứng bì của Hội thấp khớp học Hoa Kỳ (ACR)/Hệ thống phân loại của hội thấp khớp học châu Âu (EULAR) cho xơ cứng bì hệ thống.
Tiêu chuẩn chẩn đoán xơ cứng bì hệ thống bao gồm các đặc điểm sau:
Dày da ở ngón tay của cả hai tay.
Tổn thương đầu ngón tay (ví dụ: loét, sẹo lồi).
Giãn mạch
Bất thường mao mạch giường móng (ví dụ giãn mạch máu, khu vực không có mạch máu) khi kiểm tra soi mao mạch (ví dụ: có thể nhìn thấy được khi dùng kính lúp hoặc kính hiển vi phân tích).
Tăng áp lực động mạch phổi và/hoặc bệnh phổi kẽ.
Hiện tượng Raynaud
Các tự kháng thể (kháng centromere, kháng Scl-70, kháng RNA polymerase III) liên quan đến bệnh xơ cứng hệ thống
Các tiêu chí này được tính điểm, trong một số trường hợp dựa vào các tiêu chuẩn phụ, và được bổ sung vào để tính điểm. Điểm đạt trên một ngưỡng nhất định xác định chẩn đoán xơ cứng bì hệ thống.
Là một phần của đánh giá ở lần khám ban đầu, kiểm tra chức năng phổi, chụp CT ngực độ phân giải cao (với tư thế nằm ngửa và nằm sấp để đảm bảo rằng những thay đổi ban đầu không phải do xẹp phổi) và siêu âm tim được sử dụng để ghi nhận các bệnh lý liên quan đến tim phổi (bệnh phổi mô kẽ và/hoặc tăng áp động mạch phổi) và mức độ nặng của bệnh. Đánh giá ban đầu được chỉ định ngay cả ở những bệnh nhân không báo cáo khó thở, ho hoặc không dung nạp gắng sức. Siêu âm tim và kiểm tra chức năng phổi nên được thực hiện mỗi 1 đến 2 năm sau đó.
Hình ảnh do bác sĩ Sanjeev Patil cung cấp
Hình ảnh do bác sĩ Sanjeev Patil cung cấp
Tài liệu tham khảo chẩn đoán
1. Lazzaroni MG, Marasco E, Campochiaro C, et al. The clinical phenotype of systemic sclerosis patients with anti-PM/Scl antibodies: results from the EUSTAR cohort. Rheumatology (Oxford). 2021;60(11):5028-5041. doi:10.1093/rheumatology/keab152
Điều trị xơ cứng bì hệ thống
Điều trị hướng đến các triệu chứng và các cơ quan bị thương tổn
Không có loại thuốc nào có tác động đáng kể đến quá trình tự nhiên của bệnh xơ cứng hệ thống nói chung, nhưng nhiều loại thuốc có giá trị trong việc điều trị các triệu chứng cụ thể hoặc hệ thống cơ quan liên quan.
Corticosteroid làm cho bệnh nhân dễ bị suy thận do xơ cứng bì và do đó nên tránh dùng (1).
Biểu hiện ở da và khớp
Chưa có phương pháp điều trị dứt điểm nào được chứng minh là có hiệu quả đối với tình trạng da bị tổn thương. Tuy nhiên, methotrexate, mycophenolate mofetil, tocilizumab, rituximab, globulin miễn dịch đường tĩnh mạch và cyclophosphamide đều cho thấy hiệu quả không đáng kể (2).
Không có liệu pháp nào có hiệu quả rõ rệt trong điều trị lắng đọng canxi ở da. Một số loại thuốc như là warfarin, hydroxychloroquine heparin và colchicine đã được nghiên cứu nhưng không mang lại kết quả khả quan. Tuy nhiên, có thể sử dụng natri thiosunfat tiêm vào tổn thương, cũng như phẫu thuật cắt bỏ các tổn thương lớn ảnh hưởng đến chức năng khớp hoặc gây mất thẩm mỹ cho bệnh nhân.
Liệu pháp laser có thể hữu ích đối với chứng giãn mạch gây mất thẩm mỹ cho bệnh nhân, nhưng tỷ lệ tái phát cao.
Có bằng chứng cho thấy việc cấy ghép tế bào gốc tạo máu tự thân trong giai đoạn đầu của bệnh xơ cứng bì hệ thống lan tỏa ở da làm tăng tỷ lệ sống sót sau năm đầu tiên nhiều hơn so với cyclophosphamide đường tĩnh mạch; tuy nhiên, tỷ lệ tử vong cao hơn trong năm đầu tiên (3). Tỷ lệ tử vong cao đã hạn chế việc sử dụng phương pháp này, thường chỉ giới hạn ở các trung tâm chuyên khoa.
Vật lý trị liệu có thể giúp duy trì sức mạnh cơ bắp, nhưng không hiệu quả trong việc ngăn ngừa co cứng khớp.
Biểu hiện đường tiêu hóa
Viêm thực quản trào ngược có thể được cải thiện bằng cách cho ăn nhiều bữa nhỏ, dùng thuốc ức chế bơm proton liều cao, kê cao đầu giường khi ngủ và không nằm ngửa trong vòng 3 giờ sau bữa ăn cuối cùng.
Hẹp thực quản có thể cần phải nong định kỳ; trào ngược dạ dày thực quản có thể cần phải phẫu thuật cắt dạ dày.
Bệnh nhân có thể cần điều trị bằng thuốc kháng sinh để giải quyết các triệu chứng của tình trạng vi khuẩn phát triển quá mức ở ruột non, chẳng hạn như đầy hơi, chướng bụng và tiêu chảy.
Biểu hiện tim phổi
Mycophenolate mofetil có hiệu quả trong điều trị bệnh phổi kẽ liên quan đến bệnh xơ cứng bì (4). Thuốc này được so sánh với cyclophosphamide và được thấy là có hiệu quả tương đương và được dung nạp tốt hơn (4).
Thuốc chẹn kháng IL-6 tocilizumab đã được chứng minh là có tác dụng bảo tồn chức năng phổi trong bệnh phổi kẽ liên quan đến xơ cứng bì và đang trở thành một lựa chọn thay thế cho mycophenolate mofetil, đặc biệt là nếu viêm đa khớp là một đặc điểm chủ yếu (5).
Thuốc chống xơ hóa nintedanib đã được chứng minh là làm chậm tốc độ suy giảm chức năng phổi ở bệnh phổi kẽ liên quan đến xơ cứng bì và có thể được thêm vào liệu pháp ức chế miễn dịch ở những bệnh nhân có bệnh tiến triển mặc dù đã điều trị đầy đủ bằng thuốc ức chế miễn dịch (6).
Rituximab đang được đánh giá cho bệnh phổi kẽ liên quan đến bệnh mô liên kết và có thể có hiệu quả (7). Azathioprine cũng có thể hiệu quả trong điều trị bệnh phổi kẽ.
Ca ghép phổi thành công cũng đã được báo cáo (8).
Epoprostenol (prostacyclin) và bententan có thể được sử dụng trong điều trị tăng áp động mạch phổi.
Thuốc chẹn kênh canxi, như nifedipine phóng thích kéo dài (ví dụ: 30 đến 120 mg mỗi ngày) giúp cải thiện hội chứng Raynaud nhưng có thể làm trào ngược dạ dày. Bosentan, sildenafil, tadalafil và vardenafil là những lựa chọn thay thế để điều trị hội chứng Raynaud thể nặng. Bệnh nhân nên ăn mặc ấm, đeo găng tay và giữ đầu ấm. Truyền tĩnh mạch prostaglandin E1 (alprostadil) hoặc epoprostenol hoặc các thuốc chẹn giao cảm có thể được chỉ định cho thiếu máu chi nặng. Điều trị nhiễm trùng chồng chéo là cần thiết để tạo điều kiện cho vết loét ở ngón tay mau lành.
Biểu hiện bệnh thận
Đối với cơn suy thận cấp, một trường hợp cấp cứu nội khoa, việc điều trị kịp thời bằng thuốc ức chế men chuyển angiotensin có thể kéo dài đáng kể thời gian sống thêm (9). Tỷ lệ tử vong do suy thận do xơ cứng bì vẫn cao, nhưng tình trạng này thường có thể hồi phục nếu được điều trị kịp thời.
Có thể cần phải lọc máu tạm thời hoặc dài hạn.
Ghép thận là một lựa chọn khả thi cho những bệnh nhân mắc bệnh thận giai đoạn cuối.
Tài liệu tham khảo về điều trị
1. Steen VD, Medsger TA Jr. Case-control study of corticosteroids and other drugs that either precipitate or protect from the development of scleroderma renal crisis. Arthritis Rheum. 1998;41(9):1613-1619. doi:10.1002/1529-0131(199809)41:9<1613::AID-ART11>3.0.CO;2-O
2. Jerjen R, Nikpour M, Krieg T, Denton CP, Saracino AM. Systemic sclerosis in adults. Part II: management and therapeutics. J Am Acad Dermatol. 2022;87(5):957-978. doi:10.1016/j.jaad.2021.10.066
3. van Laar JM, Farge D, Sont JK, et al. Autologous hematopoietic stem cell transplantation vs intravenous pulse cyclophosphamide in diffuse cutaneous systemic sclerosis: A randomized clinical trial. JAMA. 2014;311(24):2490–2498. doi:10.1001/jama.2014.6368
4. Tashkin DP, Roth MD, Clements PJ, et al. Mycophenolate mofetil versus oral cyclophosphamide in scleroderma-related interstitial lung disease (SLS II): A randomised controlled, double-blind, parallel group trial. Lancet Respir Med. 2016;4(9):708–719. doi:10.1016/S2213-2600(16)30152-7
5. Roofeh D, Lin CJF, Goldin J, et al. Tocilizumab prevents progression of early systemic sclerosis-associated interstitial lung disease. Arthritis Rheumatol. 2021;73(7):1301-1310. doi:10.1002/art.41668
6. Distler O, Highland KB, Gahlemann M, et al. Nintedanib for systemic sclerosis-associated interstitial lung disease. N Engl J Med. 2016;380(26):2518-2528. doi:10.1056/NEJMoa1903076
7. Maher TM, Tudor VA, Saunders P, et al. Rituximab versus intravenous cyclophosphamide in patients with connective tissue disease-associated interstitial lung disease in the UK (RECITAL): a double-blind, double-dummy, randomised, controlled, phase 2b trial. Lancet Respir Med. 2023;11(1):45-54. doi:10.1016/S2213-2600(22)00359-9
8. Pradère P, Tudorache I, Magnusson J, et al. Lung transplantation for scleroderma lung disease: An international, multicenter, observational cohort study. J Heart Lung Transplant. 2018;37(7):903-911. doi:10.1016/j.healun.2018.03.003
9. Steen VD, Costantino JP, Shapiro AP, Medsger TA Jr. Outcome of renal crisis in systemic sclerosis: relation to availability of angiotensin converting enzyme (ACE) inhibitors. Ann Intern Med. 1990;113(5):352-357. doi:10.7326/0003-4819-113-5-352
Tiên lượng về xơ cứng hệ thống
Trong một nghiên cứu theo đoàn hệ, thời gian sống thêm chung 10 năm là 92% đối với bệnh xơ cứng hệ thống da giới hạn và 65% đối với bệnh xơ cứng hệ thống lan tỏa trên da (1). Các yếu tố dự báo tử vong sớm bao gồm nam giới, khởi phát muộn, bệnh lan tỏa, tăng áp động mạch phổi và cơn bão thận (2). Quá trình diễn ra tùy thuộc vào loại bệnh (lan tỏa hay giới hạn) và hồ sơ kháng thể nhưng có thể không thể đoán trước. Bệnh nhân mắc bệnh lan tỏa trên da có xu hướng có diễn biến lâm sàng nghiêm trọng hơn và cuối cùng phát triển các biến chứng nội tạng (thường trong vòng 3 năm đến 5 năm đầu tiên), nếu nặng có thể dẫn đến tử vong. Suy tim có thể khó chữa. Các ổ phát nhịp ngoại vi ở tâm thất, ngay cả khi không có triệu chứng, làm tăng nguy cơ đột tử.
Bệnh nhân bị bệnh xơ cứng hệ thống da giới hạn (hội chứng CREST – vôi hóa da, hội chứng Raynaud, rối loạn nhu động thực quản, xơ cứng ngón tay, giãn mạch) có thể mắc bệnh không tiến triển trong thời gian dài; những thay đổi về nội tạng (ví dụ: tăng áp động mạch phổi do bệnh mạch máu phổi, một dạng đặc biệt của bệnh xơ gan mật) cuối cùng cũng phát sinh, nhưng quá trình này thường khá lành tính.
Tài liệu tham khảo về tiên lượng
1. Al-Dhaher FF, Pope JE, Ouimet JM. Determinants of morbidity and mortality of systemic sclerosis in Canada. Semin Arthritis Rheum. 2010;39(4):269-277. doi:10.1016/j.semarthrit.2008.06.002
2. Hao Y, Hudson M, Baron M, et al. Early mortality in a multinational systemic sclerosis inception cohort. Arthritis Rheumatol. 2017;69(5):1067–1077. doi:10.1002/art.40027
Những điểm chính
Những dấu hiệu chính trong xơ cứng bì hệ thống bao gồm thay đổi da và khớp, hội chứng Raynaud và thay đổi ở thực quản, nhưng các biểu hiện đe dọa tính mạng có thể liên quan đến các cơ quan như phổi, tim hoặc thận.
Cân nhắc chẩn đoán nếu bệnh nhân mắc hội chứng Raynaud, các biểu hiện điển hình về cơ xương hoặc da, hoặc chứng khó nuốt không rõ nguyên nhân, kém hấp thu, bệnh phổi kẽ, tăng áp động mạch phổi, bệnh cơ tim hoặc rối loạn dẫn truyền.
Xét nghiệm kháng thể ANA, Scl-70 (topoisomerase I), kháng centromere và kháng U3 RNP.
Vì không có liệu pháp điều trị rõ ràng làm thay đổi bệnh, nên điều trị trực tiếp các cơ quan bị tổn thương.